Thứ Sáu, 10 tháng 4, 2015
Lại kể chuyện ma và chuyện thời E 207 của tôi sau chuyến đi thực tế sáng tác Dzu- htt
Lại kể chuyện ma và chuyện thời E 207 của tôi sau chuyến đi thực tế sáng tác
Dzu- htt
Sáng 14 tháng 10 năm 2011, chúng tôi ăn sáng ở ngã ba An Nhơn thị trấn Vũng Liêm. Trong lúc chờ thức ăn dọn ra, Bùi Anh Tấn say sưa kể cho tôi nghe những gì đêm qua anh và Phan Trung Thành được ông Trần Văn Nuôi, cán bộ bảo vệ Khu tưởng niệm cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt kể cho nghe. Vẫn là những chuyện tôi đã từng được nghe từ mấy năm trước, thời đi dạy nhạc ở Vũng Liêm, nhưng nay nghe lại vẫn cứ rờn rợn thế nào.
Thành nói.
- Em nghe xong sợ tới mức, mắc đái mà không dám đi. Chính ông Tư Nuôi nói, mới cách nay mấy ngày, đang đêm nghe có tiếng người than khóc ủ ê, ổng bấm đèn pin ra ngoài xem có chuyện chi, thì thấy ngay bên chân cầu bắc qua ao cá có bóng người, tới gần thì nhận ra đó là một người đàn bà ngồi xõa tóc ẵm đứa con nít, hai mẹ con đều máu me đầm đìa. Biết là hồn ma hiển linh, ông Nuôi liền năn nỉ, trời sắp mưa rồi, bà ẵm con về đi, không có mắc lạnh bây giờ. Người đàn bà ngẩng đầu lên nhìn ổng một chặp, rồi tự nhiên tan biến vào hư không.
Tôi nhớ là tôi đã nghe rất nhiều chuyện đại loại như vậy. Ai kể cũng khẳng định, cái ao trước Khu tưởng niệm cố Thủ tướng là ao Vũng Linh, gắn liền với một sự kiện lịch sử xãy ra từ Năm 1872, khi đốc binh Lê Cẩn và quân sư Nguyễn Giao phục binh ở cầu Vông, giết chết tên quan năm Salicetti, bị quân Pháp mở cuộc hành quân trả thù vô cùng đẫm máu, giết chết hàng trăm người dân vô tội, xác đùa hết xuống cái ao ấy. Người ta nói rằng, thuở ngã ba An Nhơn còn hoang vắng, chỗ Khu tưởng niệm cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt bây giờ, là một vườn cây rậm rạp, đêm đêm các oan hồn thường hiện lên, người thì đi vất vưởng, người thì ngồi vạ vật, ai cũng máu me đầm đìa, ai cũng ơ hờ than khóc. Hồn ma tập trung đông nhất là xung quanh các gốc cây cổ thụ. Lớp nằm lớp ngồi, lớp đi la lết, lớp leo lên cả các cành cây mà than khóc. Bởi vậy dân làng An Nhơn phải lập đàn cúng tế, đốn bỏ gần hết các cây cổ thụ, rồi trấn yểm trừ tà ma. Chừng nhà nước tiến hành xây Khu tưởng niệm, Tư Nuôi được điều về làm cán bộ bảo vệ, lúc đó trên cuộc đất rộng gần hai héc ta vẫn còn một cây me cổ thụ. Vào những đêm khí trời se lạnh, hồn ma vẫn thường hiện về quanh gốc cây mà khóc. Anh em trong tổ bảo vệ sợ quá, lại phải lén cúng heo quay. Cúng hôm trước, hôm sau một cơn giông nổi lên, cây me bị sét đánh trốc gốc chết cháy. Từ đó người ta không còn thấy hồn ma hiện về nữa. Tuy nhiên những người yếu bóng vía, thỉnh thoảng vẫn thấy, vẫn linh cảm các hồn ma hiện lên vất vưởng đâu đó; như trường hợp Tư Nuôi vừa thấy cách nay mấy ngày, mà Bùi Anh Tấn và Phan Trung Thành mới kể cho tôi nghe.
Chuyện chỉ là nghe kể thế thôi, nhưng cho dẫu tôi có muốn không tin, thì cũng không thể không tin cho được. Biết bao nhiêu người đã cả quyết với tôi, rằng bất cứ ai đến ngủ ở cuộc đất xung quanh ao Vũng Linh, thì ngay giữa ban ngày ban mặt, vẫn cứ bị bóng đè, bị hất té từ trên giường, trên ván ngựa xuống đất. Nhiều người đang ngủ, bổng mê sảng vùng dậy la hoảng rùm trời, mồ hôi đổ tháo ra như tắm, hai mắt mở to thô lố hoảng hốt, mặt cắt không còn giọt máu.
Dân gian thường nói, ma cây gáo cáo cây đề. Thế nhưng có phải ở đâu cũng có sẵn cây gáo cho ma đến ở, thành ra ma đành phải nấp vào những cây cổ thụ mà sống. Như tại khu bệnh viện cũ ở thành phố Vĩnh Long, khi giải tỏa làm quảng trường, người ta có để lại một cây cổ thụ làm kiểng, và trong một thời gian dài, hồn ma vẫn thường hiện lên ở đó. Ma ấy toàn là ma con nít, lít nhít từ một, hai, ba, đến năm, sáu, bảy, tám tuổi. Con thì mặc quần áo, con thì quấn tả, con thì trần truồng nhông nhổng. Là bởi sát ngay cây xà cừ cổ thụ ấy, trước đây là nhà xác của Khoa sản, có không biết bao nhiêu trẻ con chết yểu, bao nhiêu bào thai bị trục phá từ trong bụng mẹ. Đám ma con nít ấy túm tụm trên các cành cây giỡn hớt, có khi còn nhổ nước miếng, còn đái tè xuống đầu người ngồi dưới gốc cây. Có người bạo miệng, la chúng là đồ con nít hư, bị chúng vặc lại, mầy đừng có mà hỗn, tụi tao phải bằng tuổi tía má mầy, bằng tuổi ông bà nội ngoại mầy, phải xưng hô cho biết điều nghe con. Vẫn biết nhà nước có chủ trương cấm mê tín dị đoan, nhưng dân tình tin vào thế giới cõi âm, nên việc họ lập đàn cúng kiếng cầu cho hồn ma siêu thoát, cũng là lẽ thường tình. Như có lần ở Trà Vinh, tôi với Trần Văn Bái, mới bốn giờ ba mươi sáng, đã thức dậy, đi bộ từ trường chuyên Lê Quý Đôn ra chợ phường một ăn sáng, khi ngang qua công viên thị xã, tôi thấy hầu như ở gốc cây sao, cây dầu cổ thụ nào, cũng có cắm các cây nhang đang ngún khói. Khi đến sát nhà bưu điện cũ, tôi sững cả người, bởi thấy một bà cụ đang sì sụp vái lạy dưới gốc một cây sao già. Sau đó bà cụ đứng dậy, lọm khọm bước tới những cây cổ thụ khác, lại thắp nhang, lại cúng bái, thành kính cứ như đang quỳ lạy trong chùa vậy.
Sáng ngày 13 tháng 10, cả đoàn sáng tác chúng tôi lên xe đi thực tế tại địa bàn xã cù lao Quới Thiện, viếng phần mộ song thân tướng quân Thoại Ngọc Hầu, thăm gia đình nhà thơ quá cố Truy Phong, khi trở về ủy ban xã, tôi với nhà thơ Vũ Ân Thy, nhà thơ Thanh Yến và Nhật Quỳnh bị mắc mưa, phải đứng trú trong ngôi nhà trống cất kế bờ sông. Nhật Quỳnh chẳng hiểu cơn cớ gì, lại hỏi nhà thơ Vũ Khoa Vũ Ân Thy, rằng anh Ân Thy có tin là có ma không. Vũ Ân Thy trả lời là anh không tin trên đời này có ma, nhưng anh tin là có linh hồn. Thanh Yến nghe vậy liền nói, Yến thì Yến tin chắc là có ma, bởi kể từ khi con trai Yến bị tai nạn qua đời, cháu vẫn thường tìm về nhà bấm điện thoại, bật đèn, bật ti vi, và mở các cửa phòng. Lần đầu tiên Yến biết cháu về nhà, là lần Yến đi xa về, mới lên tới trên lầu, thì nghe chuông điện thoại đổ dồn dập. Đó là điện thoại nội gia, không nối với hệ thống điện thoại của bưu điện, Yến lắp đặt để người nhà có thể gọi cho nhau khi cần. Ngạc nhiên vì biết khi vào nhà, Yến đã khóa cổng và khóa cửa nhà dưới, nên Yến đến ban công nhìn xuống. Nhà dưới hoàn toàn không có ai. Vậy thì ai gọi? Quá ngạc nhiên, nên Yến gọi dì Năm giúp việc ra hỏi, xem thử có phải dì Năm có gọi cho Yến không. Nghe dì Năm nói là dì không hề gọi, tự nhiên Yến linh cảm có gì đó lành lạnh trong xương sống, như thể con trai Yến đang có mặt trong nhà. Vậy là Yến lên tiếng. Con hả? Có phải con tìm về thăm mẹ không? Yến vừa hỏi xong, chuông điện thoại lại đổ dồn một tràng rất dài. Lúc ấy có cả dì Năm đứng đó chứng kiến. Và từ đó, thỉnh thoảng Yến đi đâu về, chuông điện thoại bàn nội gia vẫn vang lên như thế. Rồi thì bóng đèn phòng khách, không ai bật, cũng tự động bừng sáng, rồi tự động tắt đi. Cả ti vi cũng vậy. Đang đêm hôm khuya khoắt, bỗng tự động hát vang lên, rồi có khi lại tự động cắt ngang hông cái rụp. Yến biết chắc chắn, chỉ có con trai Yến mới trở về làm điều đó, vì khi còn sống, cháu rất quấn quýt với mẹ. Vậy nên Yến phải thắp nhang trước bàn thờ, nói rằng con nhớ mẹ thì con cứ về thăm, chứ đừng bày trò nghịch ngợm như vậy, khiến cả nhà phải sợ. Thế nhưng cũng phải tới sau lễ thất tuần, mọi việc mới thật sự chấm dứt, không còn thấy cháu nhấn điện thoại, bật đèn, mở ti vi như trước. Và cũng kể từ đó, bao giờ có nhuận bút, Yến cũng đặt lên bàn thờ cho con, không hề đụng tới một đồng một cắc. Yến nghĩ rằng, con trai Yến ở dưới âm, cũng rất cần tiền để tiêu xài. Cõi âm cõi dương, cõi nào trong thế giới này mà chẳng cần tiền.
Khi nghe tôi kể chuyện này, bà xã Huyền Trang lên tiếng, nói chi xa, hồi ngoại em mới mất, ngày nào má em không nhìn thấy bà ngoại hiện về đi tha thẩn trong nhà. Má nói, ngoại cứ lặng lẽ đi dọc theo các hành lang, đến phòng nào cũng dừng lại, nhẹ nhàng mở cửa phòng, đứng nhìn một lúc rồi lại đi. Ngoại cứ đi đi lại lại như vậy chừng mấy phút, rồi tìm đến cái ghế phô tơi, nằm xuống đọc sách như hồi còn sống. Lúc đó má sợ quá, nhắm nghiền mắt lại, chừng mở mắt ra thì ngoại đã không còn nữa. Sau khi cúng bốn chín ngày xong, hương hồn của ngoại mới siêu thoát hẳn về cõi vĩnh hằng. Huyền Trang còn nói với tôi, nếu gười nhà quá nặng lòng thương nhớ, hương hồn người quá cố sẽ rất khó siêu thoát; bởi vậy, mấy năm trước khi qua đời, nhà thơ Chim Trắng, dường như lui hẳn về sống ẩn dật ở Bình Dương, dặn con cháu chôn cất mình ở đó, để lúc ra đi được nhẹ nhàng.
Chuyện linh hồn với chuyện ma, nếu quả thật là có, thì tôi nghĩ rằng, tất cả cũng chỉ là chuyện của thế giới phản vật chất, điều mà các nhà khoa học đã khám phá ra được, đã chứng minh được sự tồn tại có thật của nó. Vật chất và phản vật chất. Nguyên tử và phản nguyên tử. Hạt và phản hạt. Hay nói theo kiểu văn học như Trần Mạnh Hảo, là thơ và phản thơ. Vậy thì… phản con người là ma chứ còn là gì nữa.
Nhớ trận đánh cuối cùng của tôi ở Ấp Trung, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang, vào đêm 29 tháng 4 năm 1975. Lúc đầu, theo kế hoạch tác chiến, tôi được lệnh dẫn trung đội đánh bọc vòng ngoài, còn Thơ(Hà Bắc), dẫn trung đội của anh đánh mũi thọc sâu; lúc đó tiểu đoàn chúng tôi(D1- E5- F8- QK8), được lệnh phối hợp với tiểu đoàn bạn, bao vây tập kích một đơn vị của trung đoàn 10 sư 7 Sài Gòn, đang đóng dã ngoại vòng ngoài căn cứ Đồng Tâm. Thế nhưng trước giờ G chừng mười phút, anh Tùng(chính trị viên đại đội(C3- D1), nói với tôi, rằng Thơ cận thị quá nặng, sợ không thấy đường dẫn trung đội đánh thọc sâu, bởi ấp Trung vườn tược cây cối quá rậm rạp, mà đêm lại hậm hực chực mưa, trời rất tối. Vậy là trung đội của tôi chuyển sang nong kinh đánh mũi thọc sâu. Ai dè, cánh C2 bị du kích dẫn lạc đường, khi đến giờ G thì đụng lưng C3 chúng tôi, vào lúc khoảng hai hay ba giờ sáng gì đấy. Khi thấy điểm pháo lệnh đồng loạt tấn công, thì C2 nổ súng, tập trung toàn bộ hỏa lực nả thẳng vào lưng trung đội của Thơ. Nghe tiếng súng, tôi biết ngay là quân ta bắn lộn quân mình, nên ra lệnh cho Phương vô tuyến điện của tiểu đoàn, đi chung với mũi thọc sâu của tôi, liên lạc ngay với C2 yêu cầu dừng nổ súng. Thế nhưng do quá bất ngờ trước tình huống oái oăm này, Phương không thể nào nhớ ra số “nhà” đã định trước(tần số liên lạc đã quy ước khi chuyển sang tấn công). Vốn là cấp trên của Phương, lúc tôi còn là A trưởng thông tin vô tuyến điện của tiểu đoàn, tôi lệnh cho Phương chuyển sang kênh liên lạc trực tiếp, nói thẳng là C2 đang bắn vào lưng C3. Nhưng cả cách liên lạc này cũng không thự hiện được, vì tất cả các máy của tiểu đoàn đang theo bám các đại đội, đều đã chuyển sang kênh quy ước. Khi Phương bắt được liên lạc với C2, thì cả trung đội của Thơ đều đã bị quân ta bằm nát. Lúc rút ra khỏi trận địa, tôi gặp xác Thơ nằm dưới một gốc dừa cụt ngọn, bụng và ngực trống lổng, toàn bộ tim, gan, phèo phổi không còn một chút gì, duy chỉ cái kính cận là vẫn còn đeo trên mắt. Cúi xuốc xốc Thơ lên lưng cõng chạy ra ngoài, tôi thấy Thơ nhẹ hẫng như không. Phương đeo máy chạy phía sau tôi, khóc rống lên hù hụ. “Anh Thơ ơi! Anh Thơ ơi! Sao mà nên nỗi này anh Thơ ơi!’. Lúc đó pháo chụp, pháo phát quang, từ căn cứ Đồng Tâm, từ Cai Lậy, dội xuống đầu chúng tôi như dội bão. Mảnh pháo xé gió rít veo véo ngang qua mặt tôi lạnh buốt. Chớp lửa của pháo chụp nháng xanh lè trên đầu. Cây cối đổ ràm rạp. Đất cát văng vù vù. Vậy mà giữa bời bời mảnh pháo réo rít xé gió ấy, tôi vẫn cõng Thơ chạy thoát ra điểm tập kết, không hề hấn sứt mẻ gì. Đến lúc đó, tôi mới biết, là tôi không còn đủ sức để cõng Thơ chạy thêm được một bước, bởi bình thường Thơ nặng gần gấp đôi tôi. Có lẽ chính Thơ chứ không là ai khác, đã độ cho tôi và Phương, chạy thoát ra khỏi cơn bão pháo cuồng điên hủy diệt trận địa, khi tụi sư 7 Sài Gòn, biết là đơn vị đóng quân dã ngoại của chúng đã bị chúng tôi diệt gọn.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, tiểu đoàn tôi về đóng quân tại chợ Vàm Cống, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp, lúc này tôi đã chuyển sang làm trợ lý chính trị tiểu đoàn. Vào một đêm, lối hai hay ba giờ sáng gì đó, lúc tôi đang ngủ tại ngôi nhà xưa của ông bà Hai(ông bà ngoại của Mai Thị Giúp và Mai Thị Đỡ), bỗng nghe có một tiếng nổ lớn rất gần, rồi đạn nhọn từ phía ủy ban xã bắn rộ lên từng tràng róng riết, vớ vội khẩu súng, tôi kéo Phùng Gia Thặng lao ngay ra ngoài. Ngang qua trung đội trinh sát của tiểu đoàn, tôi kéo luôn hai tay trinh sát theo mình. Khi chúng tôi đến ủy ban xã, tay trưởng công an xã cho biết, tiếng nổ là tiếng lựu đạn, phát ra từ ngôi nhà phía sau, cách ủy ban xã chừng trăm mét. Tay trưởng công an vừa nói xong, bỗng nghe oành một tiếng nổ chát chúa trên trời, một quầng lửa hực lên chói lóa. Mấy tay du kích xã nghe tiếng nổ, lại xả súng bắn văng mạng lên trời. Lúc đó không có ai trong ban chỉ huy tiểu đoàn, nên tôi trực tiếp lệnh cho du kích không được nổ súng gây náo loạn, chia bớt một phần ba lực lượng theo tôi. Từ trụ sở ủy ban xã, tôi lên tới ngã ba cây xăng, chỗ nhập vào con lộ đá chạy từ Vàm Cống về Sa Đéc, thì gặp một toán bộ đội của C2 đang đứng giữa đường, dưới chân họ, thấy một xác người to lớn nằm úp sấp trên vũng máu. Chỉ quét đèn pin nhìn qua, tôi đã nhận ngay ra đó là Hoành, trước đây là trung đội phó của tôi, thời tôi còn là trung đội trưởng. Quan sát hiện trường, tôi biết ngay là Hoành bị cướp cò B41, khi vận động lên lộ đá. Từng làm trợ lý bảo vệ tiểu đoàn, tôi nắm bắt tình hình rất nhanh, nên lệnh cho một tay trinh sát tìm cách liên lạc ngay với anh Sáu Hùng(tiểu đoàn trưởng) và anh Thái(chính trị viên tiểu đoàn), xin ý kiến giải quyết tử sĩ. Sau đó tôi giao cho C2 đưa xác Hoành về ủy ban xã, còn tôi đi tiếp tới nơi xãy ra vụ nổ lựu đạn đã đánh thức tôi dậy trong đêm. Té ra đó chỉ là một quả lựu đạn đánh ghen, của ai đó trong xã muốn giết tình địch của mình, nhưng lại làm mất của chúng tôi một người lính từng vào sinh ra tử hàng trăm trận, khi đất nước đã hòa bình thống nhất.
Khi anh Thái lệnh cho tôi trở về ủy ban xã giải quyết tử sĩ, tìm hiểu nguyên nhân tôi mới biết, khi nghe tiếng lựu đạn phát nổ, Hoành đã dẫn cả trung đội hỏa lực tiếp cận lộ đá, và ở đó, Hoành bị cướp cò súng B41, do cò súng mắc vào khúc dây nịt dư ra một khúc ở thắt lưng, quả đạn chống tăng đã bung cánh, cắt mất một phần ba đầu của anh ta, ném đi đâu đó, mà trong đêm chúng tôi không thể tìm thấy. Vì phải chôn cất ngay để tránh tai tiếng vào ban ngày, tôi nhờ ủy ban xã liên hệ với Trại hòm, và họ đã biếu không chúng tôi một chiếc quan tài gỗ rất tốt. Sau đó tôi cùng Trần Oanh và tay trợ lý dân vận tiểu đoàn, theo xe GMC của huyện đội, đưa xác Hoành về huyện Lấp Vò chôn cất. Khoảng bảy giờ sáng, tôi từ huyện Lấp Vò về tới Vàm Cống, không hiểu vì lý do gì, tôi không về thẳng nhà ông bà Hai, mà lại ghé qua nhà chú Sáu Tài, ở ngay ngã ba cây xăng, gần với nơi trung đội hỏa lực đóng quân, thuộc ấp Bình An, xã Bình Thành, huyện Lấp Vò, cách phà Vàm Cống chừng gần một cây số. Chú Sáu Thành là thợ sửa máy tàu, máy ô tô, là ba chồng của Mai Thị giúp. Xin nói rõ, chồng Mai Thị Giúp từng bị bắt đi lính quân dịch, lúc được về nghĩ phép, đã dùng mủ xương rồng hủy hoại mắt trái, để tránh bị điều ra mặt trận, nhưng không may con mắt ấy lại bị nhiễm trùng, cướp đi mạng sống của anh, Giúp lúc đó mới hai mươi tuổi, nên đã trở lại nhà cha mẹ bên ấp Bình Lợi, nơi tổ chính trị của tôi đóng quân tại nhà ba mẹ và nhà ông bà ngoại của Giúp, còn đứa con tên Tài thì nhà chồng giữ lại. Lúc đó chú Sáu Thành rất quý tôi, và tôi thì trọng tài thợ máy của chú, nên hai chú cháu thỉnh thoảng vẫn uống rượu với nhau. Khi tiểu đoàn(D1- E5- F8- QK8) quyết định thành lập đại đội đặc biệt, để tham gia Hội thi điều lệnh đội ngũ cấp quân khu, chuẩn bị tiến lên xây dựng quân đội chính quý theo hướng hiện đại, được điều làm đại đội trưởng, tôi và Nguyễn Phương Vỹ(chính trị viên) đã về ở tại nhà chú Sáu Thành, bởi vậy tôi với gia đình chú Sáu có rất nhiều kỉ niệm, thế nhưng kỉ niệm về buổi sáng ghé thăm nhà chú Sáu, sau khi đi chôn cất Hoành về, thì có lẽ cả đời tôi sẽ không bao giờ quên được. Lúc đó chú Sáu kêu con gái tên Hạnh pha cà phê đem lên, còn con gái lớn tên Tuyết thì làm đồ ăn sáng đãi tôi, vì chú biết là tôi vừa phải thức cả đêm. Khi tôi với chú Sáu ngồi nói chuyện, tôi thấy thằng Hiệp khoảng năm, sáu tuổi, cứ thập thò ngoài cửa, dáng vẻ rất bồn chồn, dường như muốn nói điều gì đó. Bởi vậy tôi bước ra cửa, cầm tay nó hỏi, bộ em muốn nói chuyện gì với anh phải không. Thằng Hiệp nói ngay, hồi mơi này em thức dậy ra vườn đứng đái, tự nhiên em thấy có chú bộ đội to cao hiện ra, biểu em nói anh lên sân thượng nhà em, lấy đầu anh ấy xuống đem chôn. Nghe thằng bé nói, tôi giật thót cả mình, lạnh buốt nhoi nhói dọc theo xương sống mấy lần. Khi tôi với chú Sáu, cùng tay trợ lý dân vận tiểu đoàn lên sân thượng, đang tìm quanh quất chẳng thấy gì, thì thằng Hiệp lên tiếng, anh Ba, có cái gì đen đen trên nhánh xoài kìa. Theo tay trỏ của thằng bé, chúng tôi nhận ngay ra đó là một phần đầu của Hoành bị mắc lại, khi rớt từ trên trời xuống.
Sau này, cứ mỗi lần ngồi viết về chiến tranh, không hiểu vì sao tôi rất hay nhớ tới Hoành, và rất hay viết về những kỉ niệm thời trận mạc với Hoành. Thường là tôi dựa vào một vài kỉ niệm có thật, rồi hư cấu thêm để đấy tác phẩm đi tiếp con đường của nó. Tuy nhiên, tôi chưa bao giờ nghĩ là Hoành đã thành hồn ma, ám ảnh tôi, đeo bám những trang viết của tôi, tôi chỉ nghĩ đơn giản là tôi với Hoành đã từng có với nhau quá nhiều kỉ niệm, từ thời cùng học trường huấn luyện hạ sĩ quan với nhau, cùng nhau vượt Trường Sơn, cùng nhau tác chiến trong đội hình E 207, sau này là trung đoàn 5 sư đoàn 8. Và khi làm trung đội trưởng, tôi đã nhận Hoành về làm trung đội phó cho tôi, bởi tính ngổ ngáo ngang tàng và thói thích chửi thề nói tục của anh. Và tôi cũng không dám quả quyết, có sự hòa điệu trong thế giới âm dương hay không, mà chẳng hiểu vì sao, rất tự nhiên như là có sợi dây vô hình ràng buộc, Hoành xuất hiện rất nhiều trong các bài viết, truyện ngắn và tiểu thuyết của tôi. Và cứ mỗi lần tính cách lính trận của Hoành xuất hiện, mạch truyện của tôi trở nên thông thoáng rất nhiều. Ngay từ năm 1977, khi viết truyện ngắn “đồng đội” tại thành phố Cần Thơ, không hiểu có điều gì đó mách bảo, đã xui khiến tôi viết ra khá nhiều mặt trái cuộc chiến tranh vệ quốc mà tôi đã từng tham dự. Tôi nghĩ rằng, chính Hoành và những đồng đội tử trận của tôi, đã buộc tôi phải viết ra điều đó.
Vậy thì… vậy thì… có thật là có ma… có thật là có ma không nhỉ!?!?!?...
Dzu
HUN HÚT MÙA ĐÔNG THƯỞ ẤY Hồ Tĩnh Tâm
HUN HÚT MÙA ĐÔNG THƯỞ ẤY
Dzu- htt
Mùa đông ấy là mùa đông năm 1967, khi gia đình tôi đang sơ tán ở xã Thạch Bình, huyện Thạch Thành, Thanh hóa. Một mùa đông ở vùng bán sơn địa, lạnh đến thở ra khói, môi và gót chân nứt nẻ, đau rát như phải bỏng. Bấy giờ tôi đang học lớp bảy, đã cao nhổng lên thành một chàng trai mới lớn, đã biết giúp đỡ được mẹ rất nhiều công việc, như đắp bếp lò, sửa xe đạp, sửa các đồ gia dụng, đổ giá, làm đậu phụ, nấu ăn, lên rừng lấy củi… Bấy giờ nhà tôi sống thèo lãnh ngoài bìa làng, sát với chân một cánh đồng rất rộng.
Những ngọn gió đêm đêm vẫn trượt từ triền núi xuống thung lũng mịt mùng sương muối. Gió ấy là gió bấc kéo về từ phương Bắc xa xăm, giá lạnh. Còn sương là sương muối nặng hạt, làm khô khát tới bỏng rộp cả lá cây, khiến vườn rau không kịp đậy mái che trong vườn nhà tôi chết rũ, vàng vọt tới thảm thương. Khổ nhất là bầy gà, chúng cứ thi nhau lăn ra chết vì lạnh. Đến những con trâu mộng, khỏe là thế, sức kéo gỗ băng băng là thế, cũng bị lạnh, nhiễm cước chân mà chết. Người ta xả thịt trâu bán với giá rẻ như cho, nên mấy anh em lóc nhóc nhà tôi, tuần nào cũng được vài bữa thịt trâu thả cửa. Mà thịt trâu, chả hiểu tại làm sao, nấu với khế lại rất ngon, mỗi đứa chúng tôi ăn gần cả kí lô, no tới căng bụng vẫn cứ thòm thèm muốn ăn nữa không thôi. Có lẽ tại thịt trâu lành, chất a xít trong khế lại làm cho thịt trâu trở nên mềm, ngọt. Lại thêm vào thời đó, gà chết dịch người ta cũng không bỏ đi, mà đem kho mặn với sả để ăn; nhà nào gà chết nhiều, ăn không kịp, thì họ đem phơi khô để dành. Tất nhiên cả nhà tôi cũng vậy. Bởi thế hầu như mấy anh em chúng tôi, dường như ngày nào cũng được ăn thịt, nên đứa nào cũng béo phì ra, tròn lăn lẳn.
Hồi đó nhà tôi chưa có radio, nên không nghe được dự báo thời tiết, thành thử mỗi khi sương muối kéo đến thình lình, dù đang nửa đêm rét cắt da cắt thịt mẹ tôi vẫn phải chạy ra vườn, lấy rơm che cho mấy luống cà chua, bởi cà chua là thứ cây rất dễ chết vì sương muối. Còn đang tuổi ăn tuổi ngủ, nhưng mỗi lần thấy mẹ thức dậy chạy ra vườn, tôi cũng lồm cồm ngồi dậy, chạy ra vườn, cùng mẹ ôm rơm cứu mấy luống cà chua. Sương muối rơi dày, lại thêm gió bấc hun hút, hai tai tôi đỏ mọng lên, hai bàn tay cũng đỏ tấy. Mẹ nói tôi vào nhà ngủ với các em, để mẹ làm một mình cũng được; nhưng tôi làm sao có thể bỏ mẹ thui thủi một mình giữa đêm đông giá lạnh. Mẹ lúc đó vì phải làm việc nhiều nên gầy sọm, nặng chưa tới bốn hai ky lô gam, tôi không biết mẹ lấy đâu ra sức lực mà làm việc cả ngày cả đêm. Ban ngày mẹ đi làm hai buổi, cách xa nhà vài cây số. Ban đêm mẹ lụi cụi ngồi may tay, may quần áo cho mấy cô thanh nữ trong xóm, đổi lấy gạo nếp, đậu xanh, đường mật, và cả củi nữa. Ngày chủ nhật, đáng lẽ được nghỉ, mẹ lại hoặc là lên rừng kiếm củi, hoặc là cuốc đất trồng rau, không bao giờ được ngồi yên một chỗ. Thương nhất là hình ảnh mẹ ngồi bên bếp lửa mùa đông, vừa lo chụm củi hầm nồi ngô răng ngựa, vừa tranh thủ may tay mấy cái áo cái quần cho người ta.
Các em tôi lúc bấy giờ còn nhỏ, nên mùa đông chúng rất hay đái dầm, thành ra sáng nào mẹ cũng phải đem mấy cái chăn bông ra phơi ngoài bờ rào. Hôm nào trời âm u không có nắng, mẹ phải đốt cả đống lửa lớn để hong. Khi củi đã cháy hết thành than mẹ mới đi làm. Mẹ đi làm rồi thì mấy anh em tôi cũng kéo nhau đi học. Mùa đông ở miền núi, phải từ tám giờ sáng trở đi trường mới mở cửa. Hôm nào lạnh dưới 100c thì chúng tôi được nghỉ ở nhà. Nhưng chúng tôi làm gì có hàn thử biểu mà biết hôm nào trời lạnh dưới mười độ, thành ra dù trời lạnh đến thế nào chúng tôi cũng cứ đến trường, nếu vì trời lạnh mà được nghỉ thì chúng tôi nhóm lên giữa lớp một đống lửa lớn, rồi mấy đứa nhà gần chạy về nhổ sắn đem đến nướng ăn với nhau- nhiều khi những anh chị lớn còn đem cả gạo nếp với mật với gà đến nấu chè nấu cháo để ăn với nhau. Vì vậy những ngày mùa đông được nghỉ học lại rất vui, vì chúng tôi được xúm xụm với nhau hát hò, trò chuyện và bày ra đủ thứ trò chơi. Nghĩa là chúng tôi vui đùa với nhau hết cả buổi, cứ như là vẫn đi học vậy.
Hồi đó do sức học mà tôi được bầu làm lớp trưởng, chứ thực tế tôi vẫn chỉ là một thằng nhóc so với nhiều anh chị lớn tuổi khác trong lớp, vì ở miền bán sơn địa người ta đi học rất trễ. Trong lớp bấy giờ có anh Sở đã ngoài hai mươi tuổi, là người mà tôi rất quý, vì anh có làm cho tôi một cái ná cao su bằng gỗ lim, và hứa sẽ tặng tôi một cái nỏ có dây bắn bằng ruột mèo rừng. Thỉnh thoảng vào những chiều đông giá lạnh, anh vẫn rủ tôi lên nhà, hông một chõ xôi lạc, ăn với trứng rán và muối vừng. Không hiểu sao mà tôi cứ nhớ mãi những buổi ăn xôi rất ngon ấy, mặc dù bây giờ tôi ăn chưa hết một bát xôi đã thấy ngán. Chính nhờ anh Sở mà tôi học được chút ít tiếng Mường, có thể nói chuyện được với các anh chị người dân tộc Mường cùng học trong lớp. Với tôi, anh Sở như là một thợ săn thực thụ, với cả một đàn chó săn tới năm sáu con gì đó. Thế nhưng mùa đông năm 1967 ấy, anh Sở đã quên mất việc tặng tôi cây nỏ, do anh có lệnh gọi lên đường nhập ngũ nên quên mất lời hứa với tôi. Còn tôi thì tôi nhớ, nhưng thấy anh sắp phải ra chiến trường nên tôi không dám nhắc.
Hôm đưa tiễn anh Sở sang xã bên làm lễ nhập ngủ, trời lạnh kinh khủng, da trời tái mét, gió thở dài thườn thượt dọc theo triền núi. Cả lớp tôi đưa tiễn anh Sở ra tận cuối làng. Riêng tôi với chị Nụ thì tiếp tục tiễn anh lên tận đỉnh đồi, nơi gió bấc hù hụ, cỏ ráng chết lạnh vàng quạch, hoa lau xám đục, duềnh lên rờm rợp như sóng. Tôi với chị Nụ dừng lại trên đỉnh dốc, nhìn hút theo cho đến lúc anh Sở đi khuất vào lối rẽ lưng chừng con dốc bạc xám hoa lau. Thấy chị Nụ lấy khăn tay chùi nước mắt, tôi rụt rè hỏi, “anh Sở yêu chị mà chị có yêu anh ấy không?”. Lặng đi một lúc, chị Nụ mới nói, “chị quý anh Sở, chứ chị có người yêu rồi”. Lúc đó không hiểu sao tôi thấy rất buồn, rất thương cho anh Sở. Và tôi thấy sự lên đường của anh Sở sao mà đơn độc và tội nghiệp quá. Tự nhiên cứ cay cay trong mắt.
Đã bao nhiêu năm. Đã bao nhiêu năm qua rồi, không biết anh Sở sống chết ra sao, nhưng mùa đông ấy, mùa đông năm 1967 ấy, hình như vẫn còn ám ảnh tôi một điều gì đó, day dứt lắm, cắt cứa lắm.
Dzu
HỒN MA BÓNG QUẾ truyện ma của Hồ Tĩnh Tâm
HỒN HỒN MA BÓNG QUẾ
Truyện ngắn: Hồ Tĩnh Tâm
Từ ngày vợ mất vì tai nạn giao thông, suốt hai năm trời, Toàn sống vất vưởng như người không hồn. Mỗi ngày, cứ hết giờ làm việc buổi chiều, Toàn lại tìm đến quán bà Minh gọi dĩa bò khô, ngồi lặng thinh với ve rượu trắng, tới gần nửa đêm mới khật khưởng ra về. Bà Minh là người bán đồ nhậu suốt đêm ở ngã ba đường, nên bà cũng chẳng lấy điều đó làm buồn, cho dù đêm nào Toàn cũng chiếm của bà một cái bàn, một khoảng không gian trong khoảng không gian làm ăn chật hẹp của bà. Thế rồi ngày này qua ngày khác, tuần này qua tuần khác, tháng này qua tháng khác, bà Minh quen dần với nỗi khổ đau ủ ê của Toàn, lại động lòng thương Toàn, thỉnh thoảng khi vắng khách vẫn ngồi trò chuyện với Toàn, động viên an ủi Toàn, san sẻ với anh nỗi cô đơn đau khổ. Bà thường khuyên Toàn rằng, tốt nhất là nên bán ngôi nhà đang ở, mua một ngôi nhà mới ở đâu đó, để quên đi những gì thuộc về quá khứ vẫn hằng ám ảnh anh, như vậy mới hy vọng nguôi đi được nỗi đau, để làm lại cuộc đời, vì tuổi Toàn vẫn còn rất trẻ. Nghe Toàn nói, ngôi nhà nhỏ của anh có bán cũng chẳng được bao nhiêu, bà Minh gợi ý, từ nay bà sẽ tặng anh dĩa mồi, để anh lấy tiền đó mua vé số, biết đâu trời đất thần phật lại động lòng thương thì sao. Nói sao làm vậy, đêm hôm sau khi Toàn ra uống rượu, bà Minh nhất định không chịu lấy tiền dĩa mồi, còn Toàn thì cứ khăng khăng đòi trả, và còn nói rằng, nếu bà không lấy tiền thì anh sẽ ngồi đến sáng. Đang lúc hai người chưa ai chịu nhường ai thì có người đàn ông bán vé số đi qua, bà Minh bèn nhận tiền của Toàn mua bốn tờ vé số đưa cho anh, nói rằng bà tặng anh để cầu hên. Nước này thì Toàn chỉ còn biết nhận bốn tờ vé số cùng lời cảm ơn bà Minh rồi ra về. Ai có ngờ đâu bốn tờ vé số ấy lại trúng độc đắc. Toàn nói lộc trời cùng hưởng nên chia cho bà Minh hai tờ. Mới đầu bà Minh từ chối quyết liệt lắm, vì nói rằng bà đã mua cho Toàn thì vé số là của Toàn, bà nhận sẽ không phải với trời đất, e rằng tổn thọ, nhưng rồi cứ bị Toàn thuyết phục mãi, rằng nếu Toàn hưởng phúc một mình, sợ rằng trong phúc sẽ có họa, cuối cùng bà Minh cũng chỉ xin nhận một tờ để cầu phước cho Toàn vạn sự như ý.
Có tiền, Toàn lập tức làm theo ý bà Minh, bán ngôi nhà cũ, ra ngoại ô mua miếng đất cất nhà, sát bên con đường nằm cặp dòng sông cái. Từ đó anh không còn uống rượu nữa, mà chỉ chuyên tâm vào công việc làm ăn hàng ngày. Người đời vẫn nói, họa vô đơn chí phước bất trùng lai, vậy mà từ ngày chuyển về nhà mới, công việc làm ăn của Toàn lại tiến triển tốt đẹp lên trông thấy, tiền vô ào ào như nước chảy. Đêm đêm nằm một mình trong căn phòng trống trải có cửa sổ nhìn ra sông lớn, Toàn vẫn nghĩ rằng ngôi nhà anh cất đúng long mạch, hạp với phong thủy, nên anh mới gặp được vận may trong công việc. Toàn luôn nghĩ trong đầu như vậy, cũng là bởi một điều rất lạ, không hiểu vì sao phòng ngủ của anh lúc nào cũng thoang thoảng một thứ hương thơm dìu dịu, khiến mọi mệt nhọc sau một ngày làm việc của anh đều tan biến đi hết cả, thay vào đó là cảm giác sảng khoái dễ chịu mà xưa nay anh chưa từng có. Nghĩ là có điều gì linh thiêng, nên Toàn thỉnh về nhà một bát hương, rồi đốt nhang khấn rằng, nếu có ai mở lòng phù hộ độ trì cho anh thì xin cứ về để anh thờ cúng. Khấn xong Toàn tắt đèn đi ngủ.
Vào khoảng quá nữa đêm, Toàn giật mình thức giấc, vì nhận thấy có một thiếu nữ xinh đẹp không hiểu bằng cách nào vào được phòng anh, nhẹ nhàng nằm xuống bên anh, rồi vòng tay ôm chặt lấy anh. Lúc đó Toàn không hề thấy sợ, cũng không thấy có điều gì ngạc nhiên đáng phải lo nghĩ, mà chỉ cảm thấy rạo rực nỗi khát thèm của đàn ông. Và rồi rất tự nhiên, cả hai cuộn chặt lấy nhau, đắm chìm với nhau đến mê lịm.
Sáng ngày thấy quần mình bị ướt, Toàn nghĩ rằng đêm qua mình đã nằm mê thấy chuyện ấy, nên anh vẫn yên tâm đi làm như mọi hôm. Nhưng rồi khi đêm đến, khi đã chìm vào giấc ngủ, Toàn lại thấy cô gái xinh đẹp ăn mặc theo lối người xưa đến nằm xuống bên anh, cùng anh vùi vào chuyện chăn gối đến mê lịm. Và rồi đêm nào cũng vậy. Đêm nào hai người cũng lặng lẽ dâng hiến cho nhau đến cùng kiệt sự thỏa mãn, mà ngay cả với người vợ trước đây Toàn cũng chưa bao giờ có được. Một tuần. Hai tuần. Rồi một tháng. Rồi hai tháng trôi qua. Đêm nào cũng như đêm nào, vẫn là sự dâng hiến ái ân mặn nồng bằng xương bằng thịt, bằng cảm giác khát thèm nhau đến cháy bỏng. Ngạc nhiên với chính khả năng đàn ông của mình, Toàn tìm đến quán bà Minh uống rượu, rồi tình thật kể cho bà Minh nghe về căn bệnh mộng tình của mình, với hy vọng bà Minh là người lớn tuổi, biết đâu bà Minh sẽ cho anh được một lời khuyên. Bà Minh nghe xong thì nói. “Vậy là chú phải lấy vợ rồi. Lấy vợ mới giải tỏa được ức chế trong mộng của đàn ông”.
Cuối năm đó Toàn lấy vợ. Nhưng lạ một điều, là ngay cả khi đã làm tình với vợ, cứ quá nửa đêm, người thiếu nữ xinh đẹp ăn mặc theo lối cũ xưa vẫn tìm đến với anh, cùng anh vùi vào trận mây mưa đầy lạc thú, mà chính người vợ trẻ mới cưới của anh, cũng không thể nào đem lại được cho anh điều đó. Từ chỗ ngạc nhiên về khả năng của mình, Toàn đâm ra lo sợ, nên lại đem ra kể hết cho bà Minh. Lần này thì chính bà Minh đã ngoài sáu mươi tuổi cũng phải ngạc nhiên. Bà nói với Toàn rằng. “Nếu đêm nào cũng vậy, thì một là chú bị bệnh phải đi khám bác sĩ, hai là phải rước thầy địa lý đến xem thủy thổ nơi cất nhà, rồi mời thầy cúng đến yểm bùa trấn ngự”. Nói xong, bà Minh còn ngõ với Toàn rằng, nếu Toàn chịu, bà sẽ mời giùm anh một thầy địa lý rất giỏi. Vốn chịu ơn bà Minh bởi mấy tờ vé số, nên Toàn đồng ý làm theo lời khuyên của bà, nhờ bà rước giùm ông thầy địa lý.
Thầy địa lý là một người đàn ông ngoài bảy mươi tuổi đến từ miệt Bảy Núi. Ông này đến ngồi lầm rầm khấn bái, rồi gieo quẻ, rồi nói rằng, chắc chắn dưới giường ngủ của anh có hài cốt của một người con gái trẻ chết khi còn trinh tiết. Nói xong ông còn khẳng định rằng, vợ chồng anh cần cúng bái để di dời hài cốt cô gái ra ngoài lập mộ chôn cất, thờ phụng, vì chỉ có cách đó mới ngăn được cô gái đêm đêm tìm đến với anh. Toàn nghe xong đổ tháo mồ hôi hột, nhưng không còn cách nào khác, nên đành phải nghe theo lời ông thầy địa lý, thuê người đến đào tung căn phòng để tìm hài cốt. Và quả y như lời ông thầy đã phán, khi đào nền căn phòng xuống sâu hơn một mét, người ta tìm thấy một cỗ quan tài bằng gỗ còn rất mới, như thể chỉ mới vừa chôn được một hai năm nay. Gỗ quan tài có màu hổ phách sáng đẹp, vân gỗ lượn như mây vần vũ, lại tỏa ra mùi thơm ngào ngạt rất mặn nồng. Ông thầy địa lý đeo mục kỉnh nhìn ngắm một lúc rồi nói rằng, cỗ quan tài được đóng bằng gỗ Ngọc Am là thứ gỗ quý mà ngày nay không còn nơi nào nhìn thấy, như vậy người nằm trong đó chắc chắn đã qua đời cả trăm năm nay. Mấy người thợ đào đất nghe nói, ai nấy đều tròn xoe hai mắt, nhưng lạ lùng là không ai tỏ ra sợ hãi, vì dường như hương thơm dìu dịu đã giúp trấn an cho họ. Khi mọi người cạy được nắp quan tài, lại thêm một điều ngạc nhiên đến sững sờ, là bởi trong cỗ quan tài có một thiếu nữ trẻ xinh đẹp, mặt mũi, hình dáng và quần áo đúng hệt như người mà Toàn tả lại anh vẫn gặp trong mộng. Thiếu nữ nổi lập lờ trong thứ nước đặc sền sệt có màu hổ phách nâu đậm, bốc lên hương thơm ngào ngạt. Gương mặt thiếu nữ hồng hào như đang ngủ, mái tóc xõa dài đen óng, trang phục vẫn chắc và mới như vừa may xong. Thầy địa lý trầm ngâm một lúc rồi nói. “Cô gái nếu không là con nhà quan thì cũng là con nhà bá hộ, nên mới được ướp xác bằng tinh dầu gỗ Ngọc Am, được quàn bằng quan tài gỗ Ngọc Am, linh hiển thiêng lắm, mọi người nhớ giữ mồm giữ miệng kẻo vạ oan cho cả nhà”. Nói xong thầy địa lý quỳ xuống chắp tay khấn lạy, niệm nam mô mấy câu rồi khăn áo quày quả ra đi. Trước khi ra đi ông còn không quên dặn rằng, mọi người phải quên hết chuyện này từ hôm nay để còn sống đặng với bá tánh trong thiên hạ.
Nói lời nói gió bay là nói vậy, chứ thực tình, đôi khi lời nói ám ảnh lắm. Bởi vậy, những người được vợ chồng Toàn thuê di dời hài cốt, sau khi dời quan xong, không ai dám nhận một đồng bạc, ai cũng nói, tiền ấy xin nhờ vợ chồng Toàn lo nhang đèn cúng kiếng cho cô gái, mong cô phù hộ độ trì cho họ được tai qua nạn khỏi.
Cuối năm ấy vợ Toàn hạ sanh một bé gái đẹp như tiên nữ, đặt tên là Ngọc Lam, nói trại đi tên gỗ Ngọc Am, bởi đứa bé giống cô gái trong huyệt mộ như đúc.
HTT
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)
