Thứ Sáu, 10 tháng 4, 2015

HUN HÚT MÙA ĐÔNG THƯỞ ẤY Hồ Tĩnh Tâm

HUN HÚT MÙA ĐÔNG THƯỞ ẤY Dzu- htt Mùa đông ấy là mùa đông năm 1967, khi gia đình tôi đang sơ tán ở xã Thạch Bình, huyện Thạch Thành, Thanh hóa. Một mùa đông ở vùng bán sơn địa, lạnh đến thở ra khói, môi và gót chân nứt nẻ, đau rát như phải bỏng. Bấy giờ tôi đang học lớp bảy, đã cao nhổng lên thành một chàng trai mới lớn, đã biết giúp đỡ được mẹ rất nhiều công việc, như đắp bếp lò, sửa xe đạp, sửa các đồ gia dụng, đổ giá, làm đậu phụ, nấu ăn, lên rừng lấy củi… Bấy giờ nhà tôi sống thèo lãnh ngoài bìa làng, sát với chân một cánh đồng rất rộng. Những ngọn gió đêm đêm vẫn trượt từ triền núi xuống thung lũng mịt mùng sương muối. Gió ấy là gió bấc kéo về từ phương Bắc xa xăm, giá lạnh. Còn sương là sương muối nặng hạt, làm khô khát tới bỏng rộp cả lá cây, khiến vườn rau không kịp đậy mái che trong vườn nhà tôi chết rũ, vàng vọt tới thảm thương. Khổ nhất là bầy gà, chúng cứ thi nhau lăn ra chết vì lạnh. Đến những con trâu mộng, khỏe là thế, sức kéo gỗ băng băng là thế, cũng bị lạnh, nhiễm cước chân mà chết. Người ta xả thịt trâu bán với giá rẻ như cho, nên mấy anh em lóc nhóc nhà tôi, tuần nào cũng được vài bữa thịt trâu thả cửa. Mà thịt trâu, chả hiểu tại làm sao, nấu với khế lại rất ngon, mỗi đứa chúng tôi ăn gần cả kí lô, no tới căng bụng vẫn cứ thòm thèm muốn ăn nữa không thôi. Có lẽ tại thịt trâu lành, chất a xít trong khế lại làm cho thịt trâu trở nên mềm, ngọt. Lại thêm vào thời đó, gà chết dịch người ta cũng không bỏ đi, mà đem kho mặn với sả để ăn; nhà nào gà chết nhiều, ăn không kịp, thì họ đem phơi khô để dành. Tất nhiên cả nhà tôi cũng vậy. Bởi thế hầu như mấy anh em chúng tôi, dường như ngày nào cũng được ăn thịt, nên đứa nào cũng béo phì ra, tròn lăn lẳn. Hồi đó nhà tôi chưa có radio, nên không nghe được dự báo thời tiết, thành thử mỗi khi sương muối kéo đến thình lình, dù đang nửa đêm rét cắt da cắt thịt mẹ tôi vẫn phải chạy ra vườn, lấy rơm che cho mấy luống cà chua, bởi cà chua là thứ cây rất dễ chết vì sương muối. Còn đang tuổi ăn tuổi ngủ, nhưng mỗi lần thấy mẹ thức dậy chạy ra vườn, tôi cũng lồm cồm ngồi dậy, chạy ra vườn, cùng mẹ ôm rơm cứu mấy luống cà chua. Sương muối rơi dày, lại thêm gió bấc hun hút, hai tai tôi đỏ mọng lên, hai bàn tay cũng đỏ tấy. Mẹ nói tôi vào nhà ngủ với các em, để mẹ làm một mình cũng được; nhưng tôi làm sao có thể bỏ mẹ thui thủi một mình giữa đêm đông giá lạnh. Mẹ lúc đó vì phải làm việc nhiều nên gầy sọm, nặng chưa tới bốn hai ky lô gam, tôi không biết mẹ lấy đâu ra sức lực mà làm việc cả ngày cả đêm. Ban ngày mẹ đi làm hai buổi, cách xa nhà vài cây số. Ban đêm mẹ lụi cụi ngồi may tay, may quần áo cho mấy cô thanh nữ trong xóm, đổi lấy gạo nếp, đậu xanh, đường mật, và cả củi nữa. Ngày chủ nhật, đáng lẽ được nghỉ, mẹ lại hoặc là lên rừng kiếm củi, hoặc là cuốc đất trồng rau, không bao giờ được ngồi yên một chỗ. Thương nhất là hình ảnh mẹ ngồi bên bếp lửa mùa đông, vừa lo chụm củi hầm nồi ngô răng ngựa, vừa tranh thủ may tay mấy cái áo cái quần cho người ta. Các em tôi lúc bấy giờ còn nhỏ, nên mùa đông chúng rất hay đái dầm, thành ra sáng nào mẹ cũng phải đem mấy cái chăn bông ra phơi ngoài bờ rào. Hôm nào trời âm u không có nắng, mẹ phải đốt cả đống lửa lớn để hong. Khi củi đã cháy hết thành than mẹ mới đi làm. Mẹ đi làm rồi thì mấy anh em tôi cũng kéo nhau đi học. Mùa đông ở miền núi, phải từ tám giờ sáng trở đi trường mới mở cửa. Hôm nào lạnh dưới 100c thì chúng tôi được nghỉ ở nhà. Nhưng chúng tôi làm gì có hàn thử biểu mà biết hôm nào trời lạnh dưới mười độ, thành ra dù trời lạnh đến thế nào chúng tôi cũng cứ đến trường, nếu vì trời lạnh mà được nghỉ thì chúng tôi nhóm lên giữa lớp một đống lửa lớn, rồi mấy đứa nhà gần chạy về nhổ sắn đem đến nướng ăn với nhau- nhiều khi những anh chị lớn còn đem cả gạo nếp với mật với gà đến nấu chè nấu cháo để ăn với nhau. Vì vậy những ngày mùa đông được nghỉ học lại rất vui, vì chúng tôi được xúm xụm với nhau hát hò, trò chuyện và bày ra đủ thứ trò chơi. Nghĩa là chúng tôi vui đùa với nhau hết cả buổi, cứ như là vẫn đi học vậy. Hồi đó do sức học mà tôi được bầu làm lớp trưởng, chứ thực tế tôi vẫn chỉ là một thằng nhóc so với nhiều anh chị lớn tuổi khác trong lớp, vì ở miền bán sơn địa người ta đi học rất trễ. Trong lớp bấy giờ có anh Sở đã ngoài hai mươi tuổi, là người mà tôi rất quý, vì anh có làm cho tôi một cái ná cao su bằng gỗ lim, và hứa sẽ tặng tôi một cái nỏ có dây bắn bằng ruột mèo rừng. Thỉnh thoảng vào những chiều đông giá lạnh, anh vẫn rủ tôi lên nhà, hông một chõ xôi lạc, ăn với trứng rán và muối vừng. Không hiểu sao mà tôi cứ nhớ mãi những buổi ăn xôi rất ngon ấy, mặc dù bây giờ tôi ăn chưa hết một bát xôi đã thấy ngán. Chính nhờ anh Sở mà tôi học được chút ít tiếng Mường, có thể nói chuyện được với các anh chị người dân tộc Mường cùng học trong lớp. Với tôi, anh Sở như là một thợ săn thực thụ, với cả một đàn chó săn tới năm sáu con gì đó. Thế nhưng mùa đông năm 1967 ấy, anh Sở đã quên mất việc tặng tôi cây nỏ, do anh có lệnh gọi lên đường nhập ngũ nên quên mất lời hứa với tôi. Còn tôi thì tôi nhớ, nhưng thấy anh sắp phải ra chiến trường nên tôi không dám nhắc. Hôm đưa tiễn anh Sở sang xã bên làm lễ nhập ngủ, trời lạnh kinh khủng, da trời tái mét, gió thở dài thườn thượt dọc theo triền núi. Cả lớp tôi đưa tiễn anh Sở ra tận cuối làng. Riêng tôi với chị Nụ thì tiếp tục tiễn anh lên tận đỉnh đồi, nơi gió bấc hù hụ, cỏ ráng chết lạnh vàng quạch, hoa lau xám đục, duềnh lên rờm rợp như sóng. Tôi với chị Nụ dừng lại trên đỉnh dốc, nhìn hút theo cho đến lúc anh Sở đi khuất vào lối rẽ lưng chừng con dốc bạc xám hoa lau. Thấy chị Nụ lấy khăn tay chùi nước mắt, tôi rụt rè hỏi, “anh Sở yêu chị mà chị có yêu anh ấy không?”. Lặng đi một lúc, chị Nụ mới nói, “chị quý anh Sở, chứ chị có người yêu rồi”. Lúc đó không hiểu sao tôi thấy rất buồn, rất thương cho anh Sở. Và tôi thấy sự lên đường của anh Sở sao mà đơn độc và tội nghiệp quá. Tự nhiên cứ cay cay trong mắt. Đã bao nhiêu năm. Đã bao nhiêu năm qua rồi, không biết anh Sở sống chết ra sao, nhưng mùa đông ấy, mùa đông năm 1967 ấy, hình như vẫn còn ám ảnh tôi một điều gì đó, day dứt lắm, cắt cứa lắm. Dzu

Không có nhận xét nào: