Thứ Bảy, 30 tháng 6, 2007

chuyện vặt - hotinhtam

Chuyện nghe sao nói vậy:

CHUYỆN VẶT ĐẾN LÀ KHÓ CHỊU

Một lần tôi được mời đi dự buổi Lễ phát động gây qũy vì người nghèo, ở phường 5, thị xã. Mới sơ sơ bốn doanh nghiệp tư nhân, đã huy động được 60 triệu đồng. Anh bạn tôi nói:
- Thấy chưa! Không biết dựa vào người giàu thì đào đâu ra tiền mà giúp người nghèo, giúp người tàn tật.
Từ chuyện này, anh ta say sưa nói về cái sự giàu có của con người là “quan trọng” lắm. Đừng có ngu mà nói “người giàu cũng khóc” nhé! Người ta ai cũng biết, các nhà nước đế quốc đều phải nhảy múa theo điệu kèn của giai cấp tư sản, bởi giai cấp tư sản bỏ tiền ra vận động bầu cử cho người lãnh đạo của nhà nước. (Tôi bầu anh lên thì anh phải làm việc vì quyền lợi của tôi chứ!).
Nhà nuớc của ta là nhà nước của nhân dân, dân ta còn nghèo thì nhà nước phải lo. Xin tiền người giàu cho người nghèo cũng là một cách lo. Nếu trong nước có được nhiều người giàu thì cứ mặc sức mà xin; dân ta vốn có truyền thống “lá lành đùm lá rách mà”!
Nghe anh ta nói có lý, tôi đã tính chuyển sang chuyện khác, nhưng anh ta dã lại kề miệng tai tôi mà nói nữa.
Đại loại: Làm thế nào để có được nhiều người giàu mà vận động xin tiền cho người nghèo mới là vấn đề. Chính sách này. Vốn này. Cơ chế thông thoáng này. Thông tin này. Tiếp thị này… Ôi thôi, đủ thứ cần phải đề cập, cần phải giải quyết. Một người, một doanh nghiệp tự thân sẽ không thể nào làm giàu được. Cần nhất là phải có cơ chế, phải có luật. Anh ta thao thao bất tuyệt khiến tôi rối cả lên, chỉ nhớ mỗi ý ban đầu: muốn giúp người nghèo, chúng ta cần phải dựa vào người giàu.
Vậy mà đùng một cái, anh ta tuyên bố xanh rờn:
- Ông ạ! Khi đã có cơ chế, có chủ trương chính sách, thì cũng cần quy kết cái tội không biết làm giàu. Nhà nước tạo điều kiện, nhân dân giúp đỡ, xã hội quan tâm, vậy mà anh cứ nghèo mãi, thì rõ là anh có vấn đề đứt đuôi con nòng nọc. Ai cũng như ai, phải thấy cái “sự nghèo” là nhục mà tự trọng lấy giá trị con người của mình. Thương binh ngồi xe lăn mà còn biết làm ăn để hóa thân thành tỉ phú. Lành lặn đàng hoàng, vợ con bề bề đàng hoàng, mà chịu xếp vào hạng nghèo, nghe nó vô lý qúa!
Tôi không hiểu vì sao anh bạn lại quy kết cái sự nghèo của con người là “vô lý”.
Ngay như chính bản thân anh, nhà không có, đất không có, sống túm húm trong khu tập thể bằng đồng lương của hai vợ chồng, vậy mà cả hai vẫn đóng tiền cho ngày “vì người nghèo”, ngày “vì trẻ em nghèo khuyết tật”, và đủ thứ đóng gì gì đó nữa. Vậy là anh ta đã được xếp vào loại giàu trong xã hội, đã thoát ra khỏi cái sự “vô lý” để không bị quy kết về cái “tội” không biết làm giàu. Giỏi qúa đi chứ!
Nhưng mà thôi, nói làm gì nhiều đến cái chuyện vặt vãnh khó chịu này. Tôi đang hy vọng chờ nghe anh nói đến vấn đề khác, thì qủa nhiên là như thế.
- Ông cho mượn mấy chục được không? Chưa có lương, mà cả hai đứa con cùng lúc ngửa tay xin tiền đóng qũy “học sinh tự giác vì người nghèo”, ông ạ!

Hồ Tĩnh tâm

Thứ Sáu, 29 tháng 6, 2007

búnnước lèo Trà Vnh

Hương vị đất nước

BÚN NƯỚC LÈO TRÀ VINH

Hồ Tĩnh Tâm


Đến Trà Vinh mà không ăn bún nước lèo thì uổng lắm. Bao giờ có dịp đi Trà Vinh công tác, anh bạn cũng rủ tôi đi làm một chầu bún nước lèo ngoài phố. Hai chúng tôi lần nào cũng chỉ chọn một quán duy nhất. Quán bún nước lèo của một anh người Khơ Me, do chính anh ta đảm nhiệm mọi việc nấu nướng và múc ra tô cho khách. Dễ hiểu vì sao chúng tôi lại chỉ chọn quán của anh. Bởi vì bún nước lèo là món đặc sản của đồng bào Khơ Me, có đã tự bao nhiêu đời nay, bao nhiêu đời nay.
Trước hết, muốn có bún nước lèo thì phải có mắm; muốn có mắm thì phải có cá. “Con cá làm nên con mắm”. Mắm cá lóc, mắm cá linh, mắm cá chèn, mắm cá sặc… nhưng để nấu bún nước lèo thì người ta thường dùng mắm bồ hóc, là thứ mắm cá thập cập, gồm đủ cả cá đen, cá trắng, cá ruộng, cá sông, cá biển; đôi khi còn cả ếch, nhái, bồ toọc, ễnh ương… Nhưng chủ yếu nhất, và đầu bảng nhất vẫn là cá sặc. Cá sặc là cá trắng, sinh sản và sống ê hề ngoài đồng, ngoài ruộng; mỗi năm hai mùa mưa nắng, mùa nào cá sặc cũng sẵn, cũng được bày bán ngoài chợ với giá rẻ tới không ngờ.
Người nấu bún nước lèo để bán, thường phải tự tay mình làm mắm, ủ mắm. Họ không mua từng ký mà mua từng thúng giạ. Thường là mua những thứ cá nhỏ, rẻ tiền. Cá nhiều không thể làm kỹ từng con. Người làm mắm đổ trút mỗi lần cả một vài chục ký cá vào khạp, dùng cây sậy buộc túm lại thành bó mà giã cho tróc vảy ra, bung ruột ra. Sau đó đem cá rửa sạch, rồi ướp muối, cho vào khạp da bò đem phơi. Độ một hai tháng là thành mắm. Nếu có ếch nhái thì phải lột da làm thịt cho thật kỹ. Có lẽ bởi pha tạp thập cẩm đủ thứ cá và ếch, nhái, bồ toọc… như vậy mà mới có tên bình dân là mắm bồ hóc. Và cũng chính vì lối làm mắm thập cẩm như vậy mà mắm bồ hóc rất nặng mùi, người không quen có khi không ăn được, người quen rồi thì ghiền tới mức không bứt ra được.
Mắm bồ hóc khi nấu bún nước lèo thường được nấu chín trước, rồi lược bằng rổ tre(có người gọi là cảu tre)cho thật sạch xương. Bao nhiêu mắm là tùy ở người nấu. Điều đó là mấu chốt chủ yếu để người nấu thu hút khách hàng. Ít mắm nước dùng không ngọt. Nhiều mắm nước dùng sẽ dậy mùi, kém phần hấp dẫn. Nước dùng được nấu từ mắm bồ hóc còn phải chế biến thêm một lần nữa. Tức là người nấu phải dùng cá bống kèo, cá lóc nấu chín, rồi gỡ thịt ra, giã nhỏ với ngãi bún để chế thêm vào. Đầu bảng nhất thiết phải là cá bống kèo nước lợ. Có nhiều khách hàng mê bún bồ hóc chính là vì hương vị vừa nhân nhẫn đắng, vừa ngọt thanh của mật cá bống kèo. Nhiều nơi người bán giã ngãi bún riêng, còn thịt cá bống kèo, thịt cá lóc thì chỉ gỡ ra, để người ăn có thể nhẫn nha thưởng thức. Có người còn để nguyên từng khía cá lóc chứ không hề gỡ thịt như đối với cá bống kèo, là loại cá chỉ nhỏ như đầu ngón tay và mềm thịt. Người sành điệu chỉ thích ăn đầu cá, ruột cá; phần thân và phần đuôi bị cho là không ngon, không bắt.
Thiết nghĩ cũng phải nói thêm về ngãi bún. Củ ngãi bún hao hao giống như củ riềng, nhưng không phải củ riềng, hương vị của nó khác hẳn. Khi pha vào với mắm bồ hóc, nó làm cho mắm dậy mùi thoang thoảng, vừa đằm vừa dịu, chứ không dậy mùi lên hừng hực. Có lần tôi hỏi anh bạn, tại sao người ta không hầm thêm xương heo vào nước dùng cho ngọt. Bạn tôi tròn xoe mắt, ngạc nhiên mà thốt lên: vậy thì ông đi mà ăn hủ tiếu, ăn phở. Bún nước lèo mà có xương hầm thì còn ra cái giống ôn gì. Chỉ mắm bồ hóc với thịt cá bống kèo, thịt cá lóc thôi.
Nhưng nói là nói vậy, chứ hoàn toàn không hẳn là như vậy. Khi dọn bún ra, ngoài tô bún đã chan nước dùng được nấu từ mắm bồ hóc, còn phải thêm một dĩa rau ghém bắp chuối, rau muống chẻ nhỏ, rau răm xắt nhỏ, hẹ xắt nhỏ… và cả cọng bông súng cũng xắt nhỏ. Rồi thì một gói thịt heo quay bọc trong lá chuối, người ta lại cũng chặt nhỏ nốt- từng miếng chỉ bằng hai lóng ngón tay út. Ăn bún nước lèo là ăn hương vị của mắm bồ hóc, chứ đâu phải ăn cho đã đời một bữa rồi ngán luôn tới già. Cái món nhà quê vừa bình dân lại vừa thanh thảo, không thể ăn theo lối phàm phu tục tửu được. Nó là một thứ triết lý về ẩm thực, mang đậm dấu ấn bản tính chân quê, chân chất và hồn hậu, bao dung của đồng bào Khơ Me Nam Bộ. Nó là một nét văn hóa dân gian dân giã, đã được nâng thành nghệ thuật, của bao đời chiu chắt từ ruộng đồng kinh rạch đất phương Nam đầy nắng và gió.
Nhưng chỉ bấy nhiêu đó cũng chưa đảm bảo đúng bài bún nước lèo Trà Vinh chánh hiệu. Còn phải kèm thêm mỗi tô một dĩa hai cái bánh cống, hoặc hai cái chả giò. Bánh cống là bánh chiên từ bột có pha chút nghệ cho vàng, bên trong lắc rắc vài con tôm, vài con tép bạc. Chả giò là bánh tráng gói củ sắn với tép bạc, chiên giòn lên bằng dầu phộng, dầu mè. Hai thứ này có thể chỉ nhằm mục đích làm ấm bao tử cho một ngày lao động. Bởi đích thị bún nước lèo là thứ bún bình dân, mà bình dân lại chủ yếu là người lao động, người ta rất cần ấm bao tử để lao động quần quật suốt một ngày trên đất giồng, đất ruộng của mình.
Người lao động dưới nắng miền nhiệt đới phương Nam, thường đổ mồ hôi rất nhiều, mất rất nhiều muối trong cơ thể. Bởi vậy, khi ăn bún nước lèo ở đâu, bao giờ cũng thấy có bày trên bàn một chai nước mắm, một dĩa muối ớt. Thường là ớt sừng trâu giã nhuyễn với muối bột, nhưng chủ quán biết tính khách, bao giờ cũng có sẵn trong cái dĩa nhỏ như vỏ sò một ít ớt hiểm(thứ ớt mà người Miền Bắc vẫn gọi là ớt chỉ thiên). Lại còn kèm theo cả vài tép tỏi nữa. Tùy người ăn có thích thì dùng. Không phải chủ quán tiếc ớt, tiếc tỏi không dám bày nhiều, mà người ta làm vậy là theo truyền thống; người ăn thấy cần thì xin thêm, có vậy mới tình cảm.
Thôi, nói hoài cũng vậy!
Bạn cứ thử đi ăn một lần bún nước lèo Trà Vinh thì biết.

H.T.T.